Hàng năm, bệnh sốt xuất huyết (SXH) xảy ra khá phổ biến tại một số địa phương với nhiều người mắc bệnh, trong đó có trường hợp tử vong
Bệnh SXH thường có biểu hiện triệu chứng lâm sàng khá đa dạng, có thể diễn biến nhanh từ thể nhẹ sang thể nặng không tiên lượng trước được. Nếu không được phát hiện, chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời, dễ dẫn đến tử vong. Vì vậy, không nên chủ quan với SXH.
Giai đoạn nào nguy hiểm?
Bệnh SXH thường mở đầu bằng triệu chứng sốt đột ngột nhanh chóng đạt tới 39-40 độ C. Cùng với sốt, người bệnh thấy mệt mỏi, nhức đầu (nhất là nhức 2 hốc mắt), đau mỏi các cơ khớp... Sốt liên tục, thường kéo dài 5-7 ngày (có một số ít trường hợp có thể sốt tới 8-10 ngày).
Xuất huyết là triệu chứng giúp dễ nhận biết được trên lâm sàng. Xuất huyết thường xuất hiện từ ngày thứ 3 sau sốt trở đi. Dấu hiệu xuất huyết rất đa dạng từ dấu hiệu dây thắt dương tính đến xuất huyết dưới da dạng nốt, chấm (đỏ như tôm luộc), xuất huyết niêm mạc (chảy máu cam, nôn ra máu rong kinh...). Đôi khi có thể gặp xuất huyết nội tạng (chảy máu não). Cùng với xuất huyết ở bệnh nhi thường thấy gan to dưới bờ sườn, mềm. Cơ chế chảy máu trong SXH do 3 yếu tố: giảm tiểu cầu, giãn thành mạch và rối loạn yếu tố đông máu.
Từ ngày thứ 3 sau sốt, thành mạch máu giãn nở (do phức hợp kháng nguyên - kháng thể hình thành) làm cho nước thoát ra khỏi lòng mạch. Nếu đo hematocrit, người ta nhận thấy các tế bào máu (hữu hình) với thể tích huyết tương (vô hình) tăng lên dần. Hiện tượng thoát mạch này dẫn đến tình trạng cô đặc máu do giảm thể tích huyết tương và dẫn đến sốc. Sốc nhẹ (sớm) thường thấy trẻ vật vã, huyết áp hạ hoặc kẹt (chênh lệch giữa huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu dưới 20mmHg), chân tay lạnh, tiểu ít. Nặng hơn, người bệnh lơ mơ, mê sảng, huyết áp không đo được, vô niệu.
Ngoài các triệu chứng lâm sàng trên đây (đủ để chẩn đoán ở cộng đồng), ở các cơ sở y tế, người bệnh thường được làm các xét nghiệm máu (số lượng tiểu cầu thường hạ dưới 100 x 109/l). Ở các bệnh viện lớn có thể làm xét nghiệm MAC - ELISA để xác định chẩn đoán.
Nhận biết các cấp độ của bệnh
Bệnh SXH xảy ra gồm 3 mức độ khác nhau là SXH, SXH có dấu hiệu cảnh báo và SXH nặng.
SXH có triệu chứng lâm sàng là sốt cao đột ngột, sốt liên tục từ 2-7 ngày và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu như biểu hiện xuất huyết với nghiệm pháp dây thắt dương tính, chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam; nhức đầu, chán ăn, buồn nôn; da sung huyết, phát ban; đau cơ, đau khớp, nhức 2 hố mắt.
SXH có dấu hiệu cảnh báo gồm các triệu chứng lâm sàng của SXH đã nêu trên và kèm theo các dấu hiệu cảnh báo như vật vã, lừ đừ, li bì. Bệnh nhân có triệu chứng đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan; nôn nhiều, xuất huyết niêm mạc, đi tiểu ít.
SXH nặng xảy ra khi người bệnh có 1 trong các biểu hiện thoát huyết tương nặng dẫn đến tình trạng sốc giảm thể tích hay còn gọi là sốc SXH, có ứ dịch ở khoang màng phổi và ổ bụng nhiều; có dấu hiệu xuất huyết nặng và suy tạng. Sốc SXH có biểu hiện suy tuần hoàn cấp, thường xảy ra vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh với các triệu chứng như vật vã, bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh, nhỏ, huyết áp kẹt, tụt huyết áp hay không đo được huyết áp; đi tiểu ít. Cần chú ý trong quá trình theo dõi diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ sang mức độ nặng; vì vậy, khi thăm khám phải phân độ lâm sàng để tiên lượng bệnh và có hướng xử trí phù hợp.
Lời khuyên của thầy thuốc
Hiện nay bệnh SXH chưa có vắc-xin để phòng bệnh và thuốc đặc hiệu để điều trị. Phòng bệnh chủ yếu là kiểm soát được hoạt động của muỗi truyền bệnh SXH như tránh muỗi đốt kể cả ban ngày; diệt bọ gậy muỗi, lăng quăng muỗi và muỗi trưởng thành bằng tất cả các biện pháp hiệu quả, khả thi; đồng thời thường xuyên vệ sinh cảnh quan, môi trường sống để loại bỏ các ổ chứa nước đọng là điểm sinh sản của muỗi ở trong nhà và ngoài nhà. Khi phát hiện các dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh SXH cần đến ngay cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán và điều trị phù hợp.