Sán lợn (sán dây lợn) là một bệnh gặp chủ yếu ở các nước đang phát triển ở châu Á (trong đó có nước ta), châu Mỹ La tinh.
Sán dây lợn gây bệnh lợn gạo, con người ăn phải trứng hoặc ấu trùng sán lợn sẽ mắc bệnh và có thể gây biến chứng nguy hiểm.
Vì sao người mắc bệnh sán dây lợn?
Người mắc bệnh sán lợn do 2 nguyên nhân chính: hoặc là ăn phải trứng của sán dây lợn từ phân người bị mắc sán lợn đào thải ra môi trường thông qua thực phẩm, rau, quả, nước bị nhiễm trứng sán lợn, nhất là ăn rau sống, uống nước chưa đun sôi hoặc ăn phải ấu trùng sán lợn do ăn thịt lợn bị nhiễm sán (lợn gạo) chưa nấu chín, còn sống (ăn tiết canh, nem chua, nem chạo…).
Lợn gạo là một bệnh nằm trong hệ thống các bệnh ký sinh trùng lây truyền giữa động vật và người, trong đó, lợn mang ấu trùng sán lợn đóng vai trò là vật chủ trung gian truyền bệnh.
Đường đi của sán lợn vào cơ thể người như thế nào?
Khi người ăn phải trứng sán dây lợn từ ngoại cảnh theo thực phẩm, rau quả, nước uống vào ruột non phát triển thành ấu trùng hoặc những người đang mắc sán trưởng thành ký sinh ở ruột non. Những đốt sán già, rụng ở ruột non theo nhu động ngược chiều lên dạ dày, dưới tác dụng của dịch vị, tại đây, trứng từ các đốt già được giải phóng ra và đi xuống tá tràng (có hàng nghìn ấu trùng thoát ra khỏi trứng) và chui qua thành ruột vào hệ tuần hoàn đi khắp cơ thể, vào các cơ, các mô, tổ chức não, cơ tim… phát triển thành nang ấu trùng sán.
Thông thường, sau 24-72 giờ kể từ khi ăn phải ấu trùng, ấu trùng sẽ cư trú ở các mô liên kết hoặc các cơ, sau 2 tháng, ấu trùng tạo thành một nang có vỏ bọc ngoài (kích thước 17-20x7-10 mm), còn được gọi là gạo lợn, trong nang gạo lợn có dịch màu trắng, mẩu đầu sán với 4 giác và 2 vòng móc. Ấu trùng sán lợn có thể đi đến bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể nhưng thường tập trung nhiều ở cơ, mắt, da và đặc biệt là não (chiếm 60-80% các trường hợp).
Thịt lợn cũng không an toàn khi bị nhiễm sán dây lợn.
Bệnh sán lợn biểu hiện như thế nào?
Người nhiễm bệnh sán lợn có thể có rất ít hoặc không có triệu chứng gì suốt trong nhiều năm liền. Ở da có các nang nhỏ bằng hạt đỗ đường kính khoảng từ 5 - 10mm, đôi khi lớn hơn, thường nổi ở mặt trong cánh tay nhưng có thể nổi ở bất kỳ vị trí nào và có tính cách đối xứng. Thường không đau, di động trên nền sâu, lặn dưới da. Khi xuất hiện ở não được biểu hiện như u trong não gây nên nhiều triệu chứng như động kinh, rối loạn vận động, rối loạn tâm thần, có thể bị liệt, thậm chí đột tử. Ở mắt, ấu trùng có thể nằm trong hốc mắt, mi mắt, trong kết mạc, thuỷ tinh thể, tiền phòng gây giảm thị lực hoặc bị mù tuỳ theo vị trí của ấu trùng trong mắt. Nếu nang ấu trùng ở cơ tim sẽ gây nên tim đập nhanh, rối loạn nhịp, có thể bị ngất.
Để chẩn đoán bệnh sán lợn ở người, có thể chọc hút nang sán dưới da, xét nghiệm công thức máu, dịch não tủy (bạch cầu ái toan tăng), lấy máu làm phản ứng ELISA. Nếu có các biểu hiện thần kinh, cần chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI) não.
Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh
Thông thường, cần điều trị nội khoa (thuốc diệt sán lợn); nếu có chèn ép thần kinh, gây tắc, gây giãn não thất, ứ nước trong não, cần phẫu thuật.
Có thể phòng ngừa bệnh sán lợn được bằng vệ sinh môi trường, quản lý phân thật tốt (ở nông thôn, miền núi cần có hố xí hợp vệ sinh), cần có nước sạch để dùng trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi. Vệ sinh an toàn thực phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong phòng bệnh sán lợn. Cần ăn chín uống chín (nước phải được đun sôi, để nguội, uống). Tuyệt đối không ăn thịt lợn, các sản phẩm từ thịt lợn chưa nấu chín (tiết canh, nem chua, nem chạo…), đặc biệt tránh xa thịt lợn gạo và không ăn rau sống.